Cải cách hành chính: Bước đột phá phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Xác định là một trong những khâu đột phá chiến lược và là công cụ quan trọng, tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Những năm qua, với sự quyết liệt chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, công tác cải cách hành chính đã đạt được kết quả tích cực, từng bước góp phần xây dựng một nền hành chính trong sạch, kiến tạo, phục vụ nhân dân, doanh nghiệp và cộng đồng xã hội đảm bảo hiện đại, công khai, minh bạch, thuận tiện, thông suốt, hiệu quả; lấy sự hài lòng của tổ chức và công dân làm thước đo hiệu quả của cải cách hành chính.
Bí thư Tỉnh ủy Đào Hồng Lan trao tặng Bằng khen cho các tập thể đạt thành tích tại Hội nghị tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính (CCHC) Nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 tỉnh Bắc Ninh
Kết quả đó được thể hiện trên các lĩnh vực:
Cải cách thể chế: Công tác cải cách thể chế luôn được tỉnh triển khai thực hiện tích cực, đồng bộ trên tất cả các phương diện, như: Cải cách hành chính (CCHC), cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;... thông qua việc kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền hủy bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn và quy định pháp luật mới ban hành. Do đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của địa phương ngày càng hoàn thiện. Trong 10 năm, tỉnh đã ban hành 623 văn bản quy phạm pháp luật[1] và công bố danh mục các văn bản còn hiệu lực, hết hiệu lực hoặc cần sửa đổi, bổ sung.
Cải cách thủ tục hành chính: Công tác cải cách thủ tục hành chính (TTHC) cũng được UBND tỉnh, các cấp, các ngành quan tâm chú trọng, đặt biệt là các TTHC liên quan đến cá nhân, tổ chức được cải cách cơ bản theo hướng gọn nhẹ, đơn giản. Thực hiện rà soát, cắt giảm thành phần hồ sơ của hơn 30 TTHC và cắt giảm thời gian thực hiện hơn 900 TTHC. 100% TTHC được công bố, niêm yết công khai tại Trung tâm hành chính công tỉnh, cấp huyện và Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả cấp xã. Việc tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện theo đúng quy định tại Nghị định 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 của Chính phủ với hơn 99% hồ sơ trả đúng hạn.
Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước: Bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả, bớt trùng lắp, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ; đầu mối các cơ quan, đơn vị được thu gọn; cơ cấu bên trong có sự phân định rõ hơn giữa cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị sự nghiệp. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao, tính thống nhất, công khai, minh bạch của nền hành chính đã được cải thiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước được điều chỉnh phù hợp, bảo đảm quản lý nhà nước và phục vụ xã hội. Đến nay, tổ chức bộ máy hành chính của tỉnh giảm 190 đầu mối các cơ quan, đơn vị. [2]
Công tác quản lý biên chế đã được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Tỉnh đã cắt giảm 144 chỉ tiêu biên chế công chức, 1.830 người làm việc và 59 hợp đồng lao động theo Nghị định 68.
Quá trình phân cấp quản lý nhà nước tiếp tục được thực hiện có hiệu quả trên các lĩnh vực, bảo đảm tính tự chủ trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương và phát huy sự năng động, sáng tạo trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước của bộ máy hành chính các cấp, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu.
Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức: Cải cách công vụ, công chức được đổi mới và có tiến bộ. Tỉnh từng bước rà soát, điều chỉnh và ban hành đồng bộ hệ thống tiêu chuẩn, ngạch công chức; tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức; hoàn thiện việc phê duyệt danh mục vị trí việc làm, bản mô tả công việc và khung năng lực vị trí việc làm trong các cơ quan, tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập. Từ đó, làm cơ sở cho việc tuyển dụng 263 công chức, 3.244 viên chức đảm bảo công khai, minh bạch, khách quan,... Cùng với đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND cấp huyện tiến hành sắp xếp, tuyển dụng công chức cấp xã, nhất là chức danh Chỉ huy trưởng Quân sự và Trưởng Công an cấp xã, đảm bảo có đủ số lượng, chất lượng tốt; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho đại biểu HĐND, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các ngành, lĩnh vực, công chức cấp xã hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị ở cơ quan, đơn vị cơ sở.
Cải cách tài chính công: Việc thực hiện cơ chế khoán kinh phí hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước đã thu được những kết quả tích cực, tạo cơ chế tự chủ cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính, đặc biệt là việc chủ động trong sử dụng kinh phí hiệu quả, tiết kiệm để hoàn thành nhiệm vụ được giao, từng bước cải thiện thu nhập của cán bộ, công chức. Đến nay, có 152/293 cơ quan hành chính nhà nước thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; số kinh phí tiết kiệm được hàng năm khoảng 18 tỷ đồng (năm 2019 là 18,2 tỷ đồng).
Bên cạnh đó, việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập đã đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của các đơn vị sự nghiệp khi được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc tổ chức, sắp xếp bộ máy, biên chế và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao; phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ công với chất lượng cao cho xã hội, tăng nguồn thu nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho viên chức và người lao động. Hiện nay, toàn tỉnh có 576 đơn vị sự nghiệp[3]; Các đơn vị được tự chủ hoặc tự chủ một phần kinh phí đều phát huy hiệu quả trong hoạt động dịch vụ công.
Về hiện đại hoá hành chính: Với việc đưa vào hoạt động Trung tâm Hành chính công tỉnh và cấp huyện đã thể hiện sự quyết tâm mạnh mẽ và sáng tạo của lãnh đạo tỉnh trong CCHC, là bước tiến quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền hành chính nhà nước, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư thông thoáng, thuận lợi cho doanh nghiệp, nâng cao mức độ hài lòng của nhân dân đối với chính quyền.
Tỉnh đã đồng bộ hóa việc ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai phần mềm quản lý văn bản và điều hành đến tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương trong tỉnh; hoàn thiện trục kết nối liên thông hệ thống quản lý văn bản và điều hành từ cấp tỉnh đến cấp xã, cũng như kết nối với cấp trung ương. Hiện nay, tỉnh đã cung cấp 11.454 tài khoản thư điện tử công vụ cho các đơn vị, cá nhân từ cấp tỉnh đến cấp xã. Tỉnh cũng đã tích hợp các trang thông tin điện tử của các cơ quan, ban, ngành trong tỉnh, trong đó có yêu cầu các đơn vị công khai hóa các thủ tục hành chính trên cổng thông tin của mình.
Bên cạnh đó, tỉnh cũng đang duy trì tốt hệ thống một cửa điện tử và dịch vụ công trực tuyến; trong đó, toàn tỉnh đã cung cấp dịch vụ công mức độ 3, 4 là 819 dịch vụ chiếm 49,18% tổng số dịch vụ công[4]; tỷ lệ giải quyết hồ sơ trực tuyến mức độ 3,4/hồ sơ trực tiếp bao gồm cả ngành dọc là 21%.
Đặc biệt, tỉnh đã hoàn thành việc duy trì, áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng TCVN ISO 9001:2008 và TCVN 9001:2015 cho 172 cơ quan theo đúng tiến độ.
Có thể nói, công tác CCHC được chỉ đạo, triển khai tích cực, đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực nâng cao thứ hạng Chỉ số cải cách hành chính PAR INDEX tỉnh Bắc Ninh năm 2016 đứng thứ 9/63 tỉnh, thành phố; Chỉ số năng lực cạnh cấp tỉnh PCI năm 2019 đứng thứ 4/63 tỉnh thành phố; Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2019 đạt 87,06%, đứng thứ 16/63 tỉnh thành phố trong cả nước… Đồng thời tác động tích cực đến các mặt của đời sống xã hội: Kinh tế tăng trưởng cao, có chuyển biến về chất lượng và hiệu quả, vượt qua suy giảm kinh tế, hầu hết các chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch: Năm 2019, tổng sản phẩm (GRDP) đạt 119.832 tỷ đồng, tăng 2 lần so với năm 2011, đứng thứ 7 toàn quốc; GRDP bình quân đầu người đạt 6.163 USD, gấp 2,23 lần so với bình quân cả nước và đứng thứ 2 so với cả nước; Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.073,7 nghìn tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), tăng 4,68 lần so với năm 2011, tiếp tục duy trì vị trí thứ nhất so với cả nước về quy mô sản xuất; Các hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư được đẩy mạnh; thu hút đầu tư nước ngoài năm 2019 đứng thứ 6 cả nước, thu hút mới và điều chỉnh tăng trên 1,35 tỷ USD; xuất khẩu hàng hóa ước 35.050 triệu USD (năm 2011 đạt 4,6809 tỷ USD); Thu ngân sách Nhà nước năm 2019 đạt 29.912,2 tỷ đồng, vượt 2.515 tỷ đồng so với dự toán, tăng 4,4 lần so năm 2011; Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,6% (năm 2011 là 5,8%). Văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống nhân dân được nâng lên. Khoa học, công nghệ có bước phát triển, quản lý tài nguyên và môi trường có tiến bộ, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được củng cố và giữ vững;…[5]
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, do nhận thức và sự chỉ đạo về công tác CCHC của cấp uỷ Đảng, chính quyền một số nơi còn thiếu sự đồng bộ và chưa quyết liệt; công tác tuyên truyền chưa hiệu quả; chưa phát huy hết vai trò của người đứng đầu; công chức làm nhiệm vụ cải cách hành chính còn thiếu và yếu về chuyên môn, nghiệp vụ;…nên công tác CCHC còn một số hạn chế như: Việc rà soát, đơn giản hóa, công khai thủ tục hành chính còn chậm và chưa đạt yêu cầu. Hoạt động tại bộ phận một cửa, một cửa liên thông ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị còn hình thức. Tính chuyên nghiệp, kỹ năng hành chính, đạo đức công vụ của một bộ phận cán bộ, công chức còn chưa cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ công chức cấp xã. Việc thực hiện tự chủ tài chính còn chưa thực sự hiệu quả, chưa gắn kết giữa giao nhiệm vụ, giao biên chế và kinh phí…
Để công tác CCHC nhà nước giai đoạn 2021-2030 tiếp tục đi vào chiều sâu, thể hiện tính hiệu quả, thiết thực, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, vị trí, vai trò và trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương trong triển khai công tác cải cách hành chính. CCHC chỉ có sự chuyển biến mạnh, tích cực khi có vào cuộc và được cả hệ thống chính trị tổ chức thực hiện trên cơ sở sự đồng thuận của nhân dân, đặc biệt là vai trò của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Bởi, nơi nào có người đứng đầu quyết tâm trong chỉ đạo, triển khai công tác CCHC, nơi đó có kết quả tốt và nhận được sự hài lòng của nhân dân và tổ chức.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền. Tăng cường công tác phổ biến, quán triệt, tuyên truyền để nâng cao hơn nữa về nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức các cấp, các ngành về tầm quan trọng của công tác CCHC, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác chỉ đạo, điều hành; Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào tiến trình cải cách và giám sát chất lượng thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ ba, xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức viên chức, coi đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của CCHC. Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức, hoàn thiện các quy định về chức danh, tiêu chuẩn của từng vị trí việc làm để làm cơ sở cho tinh giản tổ chức và biên chế. Tiếp tục triển khai tốt Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. Tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động công vụ. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bằng các hình thức phù hợp, có hiệu quả. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật.
Thứ tư, xây dựng Chính quyền điện tử, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Củng cố, thực hiện một cửa hiện đại ở các sở, ngành, địa phương; chú trọng hơn nữa việc xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị làm việc theo hướng hiện đại; nâng cấp hoàn thiện các phần mềm tại bộ phận một cửa, một cửa liên thông của các ngành, các cấp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính. Xây dựng, ứng dụng các phần mềm quản lý, cơ sở dữ liệu chuyên ngành tạo sự thuận lợi trong công tác quản lý, tra cứu thông tin. nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công, đáp ứng yêu cầu của người dân, doanh nghiệp và cũng như chất lượng, hiệu quả chỉ đạo, điều hành, hoạt động của các cơ quan nhà nước. Đồng thời, hoàn thiện phần mềm quản lý thông tin cán bộ, công chức, viên chức, thực hiện thống nhất quản lý thông tin của cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh.
Thứ năm, tăng cường kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính và thanh tra công vụ. Có biện pháp xử lý cụ thể, kịp thời đối với các tập thể, cá nhân không triển khai hoặc chậm triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách, có hành vi nhũng nhiễu trong thực thi giải quyết thủ tục hành chính với người dân, doanh nghiệp. Đồng thời biểu dương, khen thưởng những gương điển hình trong công tác cải cách hành chính.
Thứ sáu, tiếp tục rà soát thủ tục hành chính. Thường xuyên rà soát, đánh giá, hoàn thiện bộ thủ tục hành chính từ tỉnh đến cơ sở theo hướng đơn giản hóa thủ tục, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian giải quyết. Thực hiện nghiêm việc công bố, công khai thủ tục hành chính tại Trung tâm hành chính công tỉnh, cấp huyện và Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả cấp xã. Triển khai hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý những kiến nghị, đánh giá về tình hình, kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại các cơ quan, đơn vị. Tăng cường đối thoại giữa các cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức, cá nhân về thủ tục hành chính.
Cải cách hành chính là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, có vai trò quyết định tới sự thành công của tỉnh. Với sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ, giám sát của người dân, doanh nghiệp và sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, chắc chắn rằng công cuộc cải cách hành chính sẽ có bước đột phá trong thời gian tới, đưa Bắc Ninh sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương./.
Nguyễn Trọng Bình - Phó Giám đốc Sở Nội vụ
[1] 162 Nghị quyết do Hội đồng nhân dân ban hành và 461 Quyết định do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành.
[2] 01 cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND tỉnh; 76 phòng, Chi cục, Trung tâm và tương đương thuộc Sở, UBND cấp huyện và 113 phòng và tương đương thuộc các Trung tâm, Chi cục.
[3] Số đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên là 14 đơn vị; số đơn vị tự đảm bảo một phần chi thường xuyên là 69 đơn vị; số đơn vị do ngân sách Nhà nước đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên là 493 đơn vị.
[4] Cấp tỉnh: 716 dịch vụ; cấp huyện: 91 dịch vụ; cấp xã: 12 dịch vụ.
[5] Theo Nghị quyết số 224/NQ-HĐND ngày 05/12/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh khóa XVIII, kỳ họp thứ 16 về mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2020.