Vai trò của hoạt động Bổ trợ Tư pháp trong tiến trình cải cách Tư pháp
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Ban chấp hành Trung ương Đảng xác định một trong các đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN hiện nay là:"xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản". Nhằm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện tốt chủ trương trên, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến 2020, với mục tiêu chung là nhằm hướng đến việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật tiến tới việc xây dựng thành công mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Có thể khẳng định, cải cách tư pháp là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chiến lược cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49 được đánh giá là có nhiều quan điểm mới lạ, toàn diện, tổng hợp, tiến bộ và có tính đột phá, lần đầu tiên được thể hiện trong tiến trình hoàn thiện hóa hệ thống pháp luật nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng. Mục tiêu then chốt của cải cách tư pháp được đề ra trong Nghị quyết 49-NQ/TW là “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Để thực hiện mục tiêu trên, Bộ Chính trị cũng đề ra những định hướng cụ thể đó là: Thứ nhất, xác định Tòa án là khâu trung tâm của quá trình cải cách tư pháp, xét xử là khâu trọng tâm của toàn bộ họat động tư pháp, đề cao nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà. Thứ hai, từng bước xã hội hóa các họat động tư pháp và hoạt động bổ trợ tư pháp. Các họat động bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, giám định tư pháp phải tiến đến việc xã hội hóa mạnh để đáp ứng kịp thời yêu cầu phục vụ người dân.
Trong phạm vi chuyên đề của Hội thảo, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ ngành Tư pháp, bài viết tập trung phân tích vai trò của hoạt động bổ trợ tư pháp trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam; vai trò, tác động của hoạt động bổ trợ tư pháp đối với hoạt động xét xử nói riêng, hoạt động tố tụng nói chung. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng hoạt động bổ trợ tư pháp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và tăng cường xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
I. Vai trò của hoạt động bổ trợ tư pháp trong cải cách tư pháp
Mặc dù chỉ đóng vai trò bổ trợ, nhưng có thể khẳng định các hoạt động bổ trợ, trong đó “chủ đạo” là luật sư, công chứng, giám định tư pháp và trợ giúp pháp lý đóng vai trò rất quan trọng trong cải cách tư pháp nói chung và hoạt động tố tụng, xét xử nói riêng. Như Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã khẳng định “mặc dù chỉ đóng vai trò bổ trợ cho Tòa án và hoạt động xét xử - trung tâm của cải cách tư pháp - nhưng khi các hoạt động bổ trợ tư pháp được triển khai nghiêm túc, hiệu quả là tác động mang tính hiệu quả, bền vững tầm chiến lược cho cải cách tư pháp”.
Theo khoản 20 Điều 2, Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp thì bổ trợ tư pháp bao gồm luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại. Với góc độ bổ trợ cho hoạt động tố tụng thì bổ trợ tư pháp được hiểu một cách đơn giản là các hoạt động của các tổ chức bổ trợ tư pháp nhằm mục đích giúp cho cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình, bảo vệ pháp luật và cũng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức.
Với cách hiểu trên đã hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đề cao và khẳng định vai trò các hoạt động bổ trợ tư pháp. Với Tòa án là trung tâm của cải cách tư pháp, còn bổ trợ tư pháp có quan hệ và tác động trực tiếp đến chất lượng xét xử của Tòa án, là công cụ không thể thiếu để hỗ trợ người dân và các cơ quan tiến hành tố tụng trong một nền tư pháp dân chủ, pháp quyền.
Tổng kết 8 năm triển khai và thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW, báo cáo của Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành liên quan đã chỉ ra rằng hoạt động bổ trợ tư pháp đã có bước phát triển mạnh mẽ, nhiều hoạt động có tính đột phá nhờ thực hiện chủ trương xã hội hóa theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW. Trong đó, công chứng, luật sư và giám định tư pháp là những lĩnh vực hoạt động có vai trò hỗ trợ đắc lực cho hệ thống tư pháp. Về phương diện nhà nước, hoạt động công chứng, luật sư và giám định tư pháp sẽ góp phần quan trọng làm cho các hoạt động của hệ thống tư pháp được khách quan, nhanh chóng và đúng pháp luật (đặc biệt là đối với hệ thống xét xử). Xét trên phương diện quyền công dân, hoạt động công chứng, luật sư và giám định tư pháp góp phần bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua tư vấn pháp luật, bào chữa hoặc đại diện trước tòa án hay trọng tài kinh tế để bênh vực quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức, cũng như tạo lập và cung cấp những chứng cứ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân trong các quan hệ mà họ tham gia, đặc biệt là các quan hệ tài sản và kinh doanh.
Xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội là những nguyên tắc quan trọng trong việc thực hiện quyền lực tư pháp đã được Đảng và nhà nước đề ra. Song để thực hiện được các nguyên tắc trên thì cần tới vai trò, vị trí của hoạt động bổ trợ tư pháp. Pháp luật chỉ có thể được bảo vệ tốt khi đề cao hoạt động bổ trợ tư pháp. Tổ chức tốt hoạt động bổ trợ tư pháp sẽ là cơ sở, tiền đề nhằm ngăn ngừa các hành vi lạm dụng, vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện quyền lực tư pháp, qua đó góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết 49 của Bộ Tư pháp đã khẳng định: “Hoạt động bổ trợ tư pháp có quan hệ và tác động trực tiếp đến chất lượng xét xử của Tòa án, là công cụ không thể thiếu để hỗ trợ người dân và các cơ quan tiến hành tố tụng trọng một nền tư pháp dân chủ, pháp quyền”. Đối với vai trò của Luật sư thì: “Từ sau khi có Nghị quyết 49, hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã góp phần quan trọng thực hiện một trong trong những yêu cầu trọng tâm của cải cách tư pháp là nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa”, vai trò của Luật sư đã “góp phần cải thiện một bước chất lượng hoạt động tố tụng, làm tăng thêm tính dân chủ, công bằng tại các phiên tòa, làm giảm thiểu các vụ án oan, sai”. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, so với giai đoạn trước khi có Nghị quyết 49, số vụ án các loại có luật sư tham gia đều tăng mạnh, tỷ lệ án có sự tham gia của luật sư do công dân mời ngày càng tăng so với án theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. 100% các vụ án theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, 21,44% số vụ án hình sự, 6,8% số vụ việc về dân sự và hôn nhân gia đình, 75,6% số vụ việc về hành chính có Luật sư tham gia là minh chứng cụ thể cho sự phát triển của nghề luật sư nhờ thực hiện Nghị quyết 49. Đa số các luật sư có tinh thần trách nhiệm cao trước khách hàng và trước pháp luật.
Bên cạnh đó, sự ra đời của Bộ luật Hình sự 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự 2005 đã đánh dấu những cột mốc quan trọng trong quá trình cải cách tư pháp. Các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự đã thể hiện xu hướng tiến gần tới nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử tại phiên toà. Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã khẳng định: Muốn nâng cao chất lượng xét xử thì phải nâng cao chất lượng tranh tụng dân chủ tại phiên toà. Đây là quan điểm hết sức quan trọng để trên cơ sở đó, đề cao vai trò của Luật sư, nhằm nâng cao chất lượng xét xử của toà án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
Trong quá trình tố tụng, đặc biệt là giai đoạn điều tra, rất nhiều vụ án thì không thể thiếu được vai trò, chức năng của các cơ quan giám định tư pháp. Việc xử lý nhiều vụ án bị chậm do phải “chờ kết luận giám định tư pháp”; nhiều vụ án oan, án sai, để lọt, bỏ sót tội phạm cũng xuất phát từ những “kết quả giám định”…, có những vụ giám định tư pháp bị coi là “điểm nghẽn” của quá trình tố tụng. Do vậy, nâng cao vai trò và chất lượng của hoạt động giám định tư pháp cũng là một yêu cầu và đòi hỏi mà Đảng, nhà nước cũng đặt ra hết sức cấp bách đối với ngành tư pháp. Bộ Tư pháp đã tích cực thực hiện chủ trương “thực hiện xã hội hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên” trong Nghị quyết 49 để tháo gỡ “điểm nghẽn” này, tháo gỡ và giải quyết những khó khăn, bất cập mà các tổ chức giám định công đang mắc phải.
Luật Giám định tư pháp được thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 đã mở rộng quyền hoạt động giám định tư pháp, cho phép thành lập các tổ chức giám định ngoài công lập, góp phần giảm tải cho tổ chức giám định tư pháp công lập, đa dạng hóa hoạt động giám định.
Có thể thấy, cùng với sự phát triển “trông thấy” của hoạt động luật sư, công chứng, sự phát triển của các tổ chức giám định tư pháp, đội ngũ giám định viên và triển vọng về một hệ thống các văn phòng giám định tư pháp (sau khi có quy định hướng dẫn chi tiết) sẽ góp phần đưa lĩnh vực bổ trợ tư pháp không còn là lĩnh vực “hậu trường” mà đã thực sự tham gia vào “vòng quay tố tụng”. Điều đó càng được khẳng định rõ hơn theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhu cầu bổ trợ tư pháp nói chung và đặc biệt là nhu cầu về hoạt động của luật sư, công chứng, giám định, tư vấn pháp luật tăng lên. Đó là nhu cầu hiển nhiên tất yếu của một xã hội phát triển.
Nói đến vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý đối với hoạt động tố tụng có thể kể đến chức năng tư vấn pháp luật và tham gia các hoạt động tố tụng. Đặc biệt hiện nay phải nói đến vai trò và mô hình hoạt động của Hội đồng phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng được thành lập từ Trung ương đến các tỉnh, Thành phố. Thông qua Hội đồng này, Sở Tư pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan có liên quan có điều kiện tăng cường, phối hợp các hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý trong quá trình tố tụng, tạo điều kiện cho người nghèo, đối tượng chính sách, các nhóm yếu thế trong xã hội… biết về quyền được trợ giúp pháp lý và hướng dẫn họ tiếp cận các thông tin về trợ giúp pháp lý, quyền được có Luật sư, trợ giúp viên pháp lý đại diện cho mình để tham gia các hoạt động tố tụng, bào chữa, tranh tụng tại phiên toà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình… Đây thực sự là một chính sách “nhân văn đặc trưng”,mặc dù mới mẻ và nhiều khó khăn song với sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước, các tổ chức quốc tế, trợ giúp pháp lý đã được phát triển không ngừng và tiếp tục có sự phát triển với chủ trương xã hội hóa được ghi nhận trong Luật trợ giúp pháp lý và Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý để cụ thể hóa chủ trương của Nghị quyết 49-NQ/TW.
Với những nội dung nêu trên, ngày càng khẳng định vai trò, tác dụng của hoạt động bổ trợ tư pháp trong việc bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động tư pháp trong nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đề cao việc bảo vệ pháp luật bao nhiêu thì cũng cần đề cao bổ trợ tư pháp bấy nhiêu. Đồng thời, cũng khẳng định chủ trương “xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp” mà Nghị quyết 49/NQ-TW đặt ra là bước đi đúng đắn, tạo tiền đề cho sự phát triển của hoạt động bổ trợ tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án - nhiệm vụ trung tâm của chiến lược cải cách tư pháp.
II. Thực trạng hoạt động bổ trợ tư pháp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Ở Việt Nam, công chứng, luật sư và giám định tư pháp là các lĩnh vực hoạt động mới được phát triển mạnh trong thời gian gần đây. Tuy chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, song đã thể hiện tầm quan trọng đối với hệ thống tư pháp nói riêng và hoạt động quản lý nhà nước nói chung. Đánh giá về kết quả thực hiện Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Tư pháp, đại diện các Bộ, ban, ngành Trung ương đều khẳng định: “Nghị quyết 49 đã tạo ra những tiền đề quan trọng cho việc phát triển, lớn mạnh của hoạt động bổ trợ tư pháp ở nước ta, nhất là đối với các hoạt động bổ trợ “chủ đạo” là luật sư, công chứng, giám định tư pháp và trợ giúp pháp lý”.
Thực tiễn cũng cho thấy, xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp đã và đang mang lại những những lợi ích cho cả hai phía - người dân và cơ quan quản lý nhà nước. Về phía người dân, đó là việc được đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ công một cách thuận tiện, chuyên nghiệp, hiện đại, phù hợp với cơ chế thị trường và được hưởng lợi do sự cạnh tranh của các tổ chức hành nghề. Về phía cơ quan nhà nước, đó là sự giảm tải cho các cơ quan công lập cung cấp dịch vụ công, giảm tải cho việc chi ngân sách nhà nước và gia tăng nguồn thu vào ngân sách nhà nước, kết hợp được nhiều nguồn lực để phục vụ nhân dân.
Là một tỉnh giáp ranh thủ đô Hà Nội, tỉnh Bắc Ninh hiện có 14 tổ chức hành nghề công chứng (gồm 3 Phòng công chứng và 11 Văn phòng công chứng), phân bố trên tất cả các huyện, thị xã, thành phố. Trung bình hàng năm, các tổ chức thực hiện công chứng trên 20.000 hợp đồng, giao dịch, thu phí công chứng khoảng gần 10 tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước trên 1 tỷ đồng. Trong đó, số việc và số phí của các Văn phòng công chứng những năm gần đây chiếm khoảng 60-70%. Hoạt động công chứng đáp ứng rộng rãi nhu cầu của người dân, về cơ bản đã tạo được sự thuận tiện, thân thiện và tin cậy đối với cá nhân, tổ chức có nhu cầu công chứng. Về lĩnh vực luật sư, tỉnh hiện có 40 luật sư, 12 tổ chức hành nghề luật sư (gồm 5 Văn phòng luật sư, 7 Công ty luật), 2 chi nhánh công ty luật, cung cấp dịch vụ pháp lý đa dạng cho các tổ chức, cá nhân, hàng năm thực hiện từ 300-500 việc, trong đó có cả trợ giúp pháp lý và tư vấn pháp luật miễn phí. Về giám định tư pháp, tuy chưa thành lập được các tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập (Văn phòng giám định tư pháp) nhưng các cơ quan quản lý nhà nước đã chuẩn bị các điều kiện cho phép thành lập và hỗ trợ Văn phòng giám định tư pháp hoạt động theo quy định của pháp luật.
Những kết quả trên có được nhờ chủ trương đúng đắn về xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp của Đảng và được thể chế hóa bằng pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đó thì hoạt động bổ trợ tư pháp cũng như công tác quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp trên địa bàn tỉnh vẫn tồn tại những hạn chế cần được khắc phục kịp thời nhằm đảm bảo thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa lĩnh vực bổ trợ tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49 đề ra.
Trong những năm đầu thực hiện Luật Công chứng ở Bắc Ninh, do chưa có quy hoạch tổng thể đã dẫn đến tình trạng các văn phòng công chứng phát triển quá nhanh, quá nhiều một cách ồ ạt. Trong khi đó, đội ngũ công chứng viên còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề dẫn đến việc để xảy ra sai sót trong hoạt động. Thậm trí có tình trạng công chứng viên cố ý làm trái quy định làm ảnh hưởng đến uy tín trong hoạt động công chứng. Nguyên nhân là do Luật Công chứng hiện nay chưa xác định rõ địa vị pháp lý của công chứng viên, quy định về quyền và trách nhiệm công chứng viên chưa đầy đủ, điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm còn đơn giản...
Hoạt động của các luật sư tuy đã có những khởi sắc nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu về dịch vụ pháp lý, chủ yếu là tham gia tố tụng. Trong những năm gần đây, việc tư vấn pháp luật đã được quan tâm nhiều hơn, nhưng hầu hết là tư vấn trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình; thiếu luật sư am hiểu sâu pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, thông thạo ngoại ngữ, giỏi kỹ năng hành nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Đội ngũ giám định viên của tỉnh còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng. Một số lĩnh vực như tài chính, xây dựng, khoa học- công nghệ, ngân hàng… chưa có giám định viên. Việc tổ chức bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ và kiến thức pháp luật cho giám định viên tư pháp chưa thường xuyên, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động giám định tư pháp. Cơ sở vật chất còn lạc hậu, kinh phí hoạt động chưa được quan tâm đúng mức.
Những tồn tại trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan về thể chế, chính sách và nguyên nhân chủ quan về con người, trình độ chuyên môn, trách nhiệm nghề nghiệp.... Bên cạnh đó, một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả chất lượng xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp là vai trò quản lý nhà nước của Sở Tư pháp, các cơ quan hữu quan chưa thực sự đi vào chiều sâu, áp dụng các chế tài xử lý vi phạm chưa đủ mạnh, chưa có biện pháp hiệu quả để quản lý và chỉ đạo hoạt động bổ trợ tư pháp.
3. Một số giải pháp tiếp tục thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa, nâng cao chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động xã hội hóa công tác bổ trợ tư pháp
Ngoài các văn bản Luật đã được ban hành làm cơ sở pháp lý cơ bản cho quá trình xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp, các cơ quan quản lý nhà nước cần quan tâm khảo sát, tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Luật và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Đồng thời đề ra phương án chỉnh sửa, hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp. Các quy định cần đảm bảo vừa phát huy vai trò của các tổ chức hoạt động bổ trợ tư pháp ngoài công lập, tạo cơ chế khuyến khích, huy động các cá nhân, tổ chức có điều kiện tham gia hỗ trợ, đóng góp trên tất cả các phương diện cho công tác bổ trợ tư pháp, mặt khác cần hạn chế những hiện tượng không lành mạnh trong quá trình xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp.
Quy định về thẩm quyền quản lý nhà nước, quản lý nghề nghiệp đối với lĩnh vực bổ trợ tư pháp phải chặt chẽ, rõ ràng, cụ thể với từng cơ quan và xây dựng cơ chế phối hợp, kết nối trách nhiệm giữa các cơ quan trong thực hiện nhiệm vụ quản lý.
3.2 Nâng cao nhận thức đúng đắn về chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp
Đây cũng là một trong những đề xuất của Bộ Tư pháp để thực hiện tốt chủ trương của Nghị quyết 49 về lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Theo nhận định của Bộ Tư pháp, trên thực tế việc nhận thức chưa đầy đủ, hạn chế là “rào cản” rất lớn khiến chủ trương này có nơi, có lúc chỉ được thực hiện một cách “cầm chừng”, “cho có” mà thiếu sự quan tâm thích hợp cho sự phát triển đúng lộ trình để đạt kết quả đã đặt ra. Do chưa nhận thức được tầm quan trọng của công tác này nên hiện nay hoạt động bổ trợ tư pháp chưa được quan tâm đúng mức. Lực lượng cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp hết sức mỏng dẫn đến nhiều công việc triển khai chậm hoặc khó triển khai vì thiếu cán bộ và nguồn lực. Do đó, các cấp ủy đảng, chính quyền cần nhân thức rõ ý nghĩa của việc xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp cũng như quam tâm và tạo điều kiện cả về nhân lực và vật chất để thực hiện chủ trương này một cách hiệu quả, bền vững.
3.3. Tạo cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức tham gia xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp:
Đây là phương thức nhằm huy động nguồn lực từ người dân, khắc phục những thiếu hụt về nguồn lực đầu tư của Nhà nước cho các công tác bổ trợ tư pháp. Quan trọng hơn là tạo điều kiện cho người dân có nhiều cơ hội lựa chọn, thụ hưởng các dịch vụ bổ trợ tư pháp phù hợp với khả năng, nhu cầu, xóa bỏ dần tình trạng quyền lợi của người dân, tổ chức, doanh nghiệp bị ảnh hưởng do sự chậm chẽ, thiếu thực chất của bất kỳ hoạt động bổ trợ tư pháp nào.
Để thu hút, khuyến khích cá nhân, tổ chức tham gia xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp, cần có các biện pháp, chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho họ thành lập tổ chức và hoạt động như ưu đãi về thuế, hỗ trợ trong việc thuê cơ sở hạ tầng, hỗ trợ trong đào tạo nhân lực, tư vấn cho cá nhân, tổ chức lựa chọn lĩnh vực tham gia xã hội hóa. Các cơ chế, chính sách cần được quy định rõ, nhất quán và lâu dài tạo niềm tin và động lực thúc đẩy cá nhân, tổ chức mạnh dạn tham gia, đầu tư vào hoạt động bổ trợ tư pháp.
3.4. Tăng cường quản lý Nhà nước thông qua công tác kiểm tra ,thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về bổ trợ tư pháp
Hoạt động công chứng, giám định, luật sư, tư vấn pháp luật không chỉ liên quan trực tiếp đến lợi ích khách hàng mà còn có mối liên hệ chặt chẽ với các hoạt động của cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan tiến hành tố tụng. Thậm chí, hoạt động nghề nghiệp của các công chứng viên, giám định viên, luật sư còn “có thể gây ảnh hưởng đến công lý, tác động đến cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội”. Do đó, để đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp theo nhu cầu xã hội nhưng vẫn đảm bảo trong khuôn khổ pháp lý thì cần thiết phải tăng cường hoạt động quản lý Nhà nước, đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về bổ trợ tư pháp. Khi phát hiện các vi phạm, cần kịp thời áp dụng các biện pháp chế tài cứng rắn, đúng quy định pháp luật, thậm chí đình chỉ, chấm dứt hoạt động. Có như vậy mới đủ sức răn đe để các tổ chức này hoạt động
3.5. Phát huy vai trò tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp
Bên cạnh hoạt động quản lý nhà nước thì vai trò tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp cần phải tích cực, chủ động phát huy như Liên đoàn Luật sư, Đoàn Luật sư các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Hiệp hội công chứng… Trong những năm qua hoạt động tự quản của các tổ chức này đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đã nỗ lực đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành, thực hiện tương đối tốt công tác giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư, công chứng. Các tổ chức đã có nhiều hoạt động thiết thực để các thành viên trao đổi những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động hành nghề cũng như chú trọng công tác bồi dưỡng về kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, bước đầu triển khai thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Đối với Liên đoàn Luật sư Việt Nam, ngoài công tác kiện toàn về tổ chức, ban hành các quy chế nội bộ và quy tắc đạo đức nghề nghiệp và ứng xử của luật sư, Liên đoàn cũng chú trọng đến việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Luật sư, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề, qui tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư, thiết lập quan hệ và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của các cơ quan, ban ngành, đặc biệt là đã và đang phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an ban hành Quy chế phối hợp công tác. Bên cạnh đó, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng tích cực, chủ động tham gia xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia các đề án cải cách tư pháp và pháp luật, cũng như các hoạt động xã hội, được các cấp, các ngành đánh giá cao.
Có thể nói, công tác tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Luật sư nói riêng, các tổ chức bổ trợ tư pháp nói chung cần phải được khẳng định khi thực hiện chủ trương xã hội hoá theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị.