Khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết quy định về hợp đồng, giải quyết tranh chấp phát sinh trong kinh doanh, phá sản doanh nghiệp

07/11/2022 14:14 Số lượt xem: 3289

1. Về áp dụng thủ tục tố tụng.

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì thời hạn giải quyết những tranh chấp về kinh doanh, thương mại tại Tòa án cấp huyện là 02 tháng. Với quy định trên của Bộ luật tố tụng dân sự thì thời hạn giải quyết vụ án kinh doanh thương mại quá ngắn. Nếu trong một vụ án kinh doanh thương mại đương sự không hợp tác, không có mặt để tham gia tố tụng khi được triệu tập... Ngoài  lý do không nhận được văn bản triệu tập, rất nhiều trường hợp đương sự không còn ở địa phương hoặc đương sự cố tình lẩn tránh không hợp tác; đương sự ở nước ngoài thì cần phải làm thủ tục ủy thác tư pháp, thu thập thêm chứng cứ;  hiểu biết nhiều về pháp luật hạn chế khi tham gia ký kết các hợp đồng nên khi xảy ra tranh chấp không tự cung cấp được chứng cứ, phải yêu cầu Tòa án thu thập từ các cơ quan, tổ chức khác. Tính phức tạp trong nội dung tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc giải quyết án bị kéo dài, quá hạn luật định, gây không ít khó khăn cho Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án.

Thứ hai, đương sự, chủ yếu là bên vay, người bảo lãnh, hoặc chủ sở hữu tài sản thế chấp thiếu hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án, cố tình vắng mặt, trì hoãn các phiên họp hòa giải, phiên tòa cũng như các phiên làm việc theo triệu tập hợp lệ của Tòa án; từ chối cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ về tình trạng quản lý, sử dụng tài sản thế chấp; có người thứ ba liên quan. Trên thực tiễn, đương sự là cá nhân bỏ đi nơi khác sinh sống, có dấu hiệu trốn nợ, tổ chức thường xuyên thay đổi địa chỉ trụ sở, địa chỉ nơi cư trú không thể xác định được địa chỉ cụ thể.

Thứ ba, đương sự là tổ chức tín dụng thiếu trách nhiệm trong việc cho vay, kiểm tra việc sử dụng vốn vay và thẩm định giá trị tài sản thế chấp sơ sài trong khi cấp khoản tín dụng rất lớn. Có ngân hàng cấp tín dụng để bị đơn thanh toán cho hợp đồng mua bán tài sản mà tài sản trong hợp đồng này chính là tài sản thế chấp, định giá tài sản theo giá trị trong hợp đồng mua bán nhưng đến khi thực hiện được quá nửa hợp đồng tín dụng mới phát hiện các bên trong hợp đồng mua bán đã nâng khống giá trị tài sản. Không tiến hành xác minh một cách sâu xát, toàn diện tài sản thế chấp. Trường hợp tài sản được thế chấp cho nhiều khoản vay, mỗi khoản vay đều nhỏ hơn giá trị tài sản thế chấp nhưng tổng các khoản vay lại lớn hơn giá trị tài sản thế chấp. Trường hợp khác, tài sản thế chấp đang được cho thuê, tài sản thế chấp đã được gán nợ, tài sản thế chấp đã bán cho người khác. Hoặc trường hợp tài sản thế chấp được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nhưng do một người là vợ/chồng đứng tên trong Giấy chứng nhận; tài sản thế chấp là tài sản chung của các đồng thừa kế nhưng do một người đứng tên trong Giấy chứng nhận; tài sản thế chấp có một phần thuộc sở hữu hợp pháp của người khác trong khi người vay, người liên quan không thông báo cho Tòa án mà Ngân hàng cũng không nắm được thông tin, đã gây không ít khó khăn cho Tòa án khi giải quyết vụ án, xác định người liên quan, nhập vụ án…

2. Về áp dụng pháp luật nội dung

Thứ nhất, thế chấp và đăng ký thế chấp tài sản hình thành trong tương lai. Thực tiễn xét xử, nhiều quan hệ thế chấp các tài sản hình thành từ vốn vay hoặc tài sản đang hình thành mà pháp luật qui định phải đăng ký được các đương sự xác lập bằng hợp đồng thế chấp quyền phát sinh từ hợp đồng chuyển quyền sở hữu trong tương lai (ví dụ hợp đồng thế chấp quyền phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai), mà không lựa chọn hình thức hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai. Dẫn đến việc xác định pháp luật được áp dụng để giải quyết tranh chấp là rất khó khăn. Khi xử lý, cũng có nhiều cách hiểu khác nhau, có quan điểm xử lý tài sản thế chấp cũng có quan điểm xử lý quyền phát sinh từ hợp đồng chuyển quyền. Việc công chứng hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai được quy định trong Luật Công chứng 2006 và gần nhất là Luật Công chứng 2014 (có hiệu lực ngày 1/1/2015) không có qui định về công chứng giao dịch thế chấp tài sản hình thành trong tương lai. Luật Công chứng năm 2014 còn qui định hồ sơ yêu cầu công chứng phải có Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó. Qui định này dẫn đến nhiều hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai, mà trực tiếp nhất là hợp đồng thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai bị từ chối công chứng. Do hợp đồng không được công chứng, Tòa án không thể mặc nhiên xem hợp đồng đã có giá trị chứng cứ mà phải tiến hành xác minh, lấy lời khai, đối chất, thu thập chứng cứ… để xác định nội dung quan hệ thế chấp. Trường hợp đương sự không hợp tác, thì việc giải quyết vụ án có thể bị kéo dài, ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người nhận thế chấp và người thế chấp.

Thứ hai, Xử lý tài sản bảo đảm. Đối với trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất.

 Trên thực tế, Tòa án chấp nhận cho xử lý đồng thời quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Đối với trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, Bộ luật Dân sự 2015 có sửa đổi một số nội dung tương ứng với khoản 4 Điều 68 Nghị định 163 sửa đổi, theo đó: nội dung “được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất” được thay thế bằng “được tiếp tục sử dụng đất trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của mình”. Bộ luật Dân sự 2015 đã chuẩn hóa chế định này. Nghị định mới về giao dịch đảm bảo cần nghiên cứu, qui định chi tiết các quyền và nghĩa vụ đặc thù của chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất, nghĩa vụ đối với quyền sử dụng đất và nghĩa vụ đối với tài sản gắn liền tài sản thế chấp. Về thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất: Nội dung này lần đầu được Bộ luật Dân sự 2015 ghi nhận, Nghị định mới về giao dịch đảm bảo cần có qui định cụ thể.

Thứ ba, Vấn đề lãi suất và phạt vi phạm hợp đồng tín dụng. Trong thời gian qua, có nhận thức khác nhau giữa Ngân hàng và cơ quan xét xử về quy định của pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm hợp đồng tín dụng dẫn đến tình trạng xét xử cùng loại tranh chấp hợp đồng tín dụng, trong đó các bên thỏa thuận về lãi suất (bao gồm lãi suất trong hạn và lãi suất nợ quá hạn, lãi phạt do chậm trả lãi), thỏa thuận phạt vi phạm nhưng có Tòa án xử chấp nhận tính lãi suất quá hạn và phạt vi phạm; có Tòa án chỉ chấp nhận tính lãi suất quá hạn mà không chấp nhận phạt vi phạm vì cho rằng tính lãi suất quá hạn đồng thời phạt vi phạm là “lãi chồng lãi”, “phạt chồng phạt”. Vấn đề tính lãi trên khoản tiền lãi chậm trả đã được qui định tại điểm a khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015, chấm dứt những tranh cãi về cách giải quyết khác nhau liên quan đến vấn đề này. Tại điểm b khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định mức phạt chậm trả lãi được xác định theo mức lãi suất tối đa không quá 10%/năm. Tuy nhiên vấn đề phạt vi phạm hợp đồng tín dụng vẫn đang có nhận thức khác nhau. Ngân hàng cho rằng Điều 25 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định tương tự quy định tại Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015 nên phạt vi phạm là nội dung bắt buộc phải có trong hợp đồng cho vay theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN. Phạt vi phạm hợp đồng là một trong các hình thức chế tài áp dụng khi một bên vi phạm hợp đồng, theo đó bên vi phạm hợp đồng phải nộp cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất định theo pháp luật quy định hoặc do các bên ký kết hợp đồng thỏa thuận. Vậy, trong hợp đồng tín dụng có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng và thỏa thuận này có hiệu lực hay không.

Thứ tư, về việc từ chối tham gia giải quyết phá sản của Quản tài viên. Theo quy định tại khoản 7 Điều 4 Luật phá sản năm 2014 thì: “Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản”. Khoản 1 Điều 45 Luật phá sản năm 2014 quy định: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán có trách nhiệm chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản”. Như vậy, căn cứ vào nội dung điều luật nói trên, thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán phụ trách giải quyết vụ phá sản đó phải có trách nhiệm chỉ định Quản tài viên. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định này lại phát sinh vướng mắc cần được hướng dẫn cụ thể.

Thứ năm, về quy định mở tài khoản ngân hàng của Tòa án. Điều 16 Luật phá sản năm 2014 quy định về quyền, nghĩa vụ của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, trong đó, tại điểm i khoản 1 có ghi nhận nghĩa vụ của Quản tài viên như sau: “Gửi các khoản tiền thu được vào tài khoản do Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền mở tại ngân hàng”. Điều này có nghĩa là, trong giai đoạn mở thủ tục phá sản tại Tòa án, sau khi có quyết định chỉ định Quản tài viên của Thẩm phán có thẩm quyền thì Quản tài viên được chỉ định đó phải gửi các khoản tiền thu được trong quá trình thực hiện việc quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán vào một tài khoản ngân hàng do Tòa án nhân dân có thẩm quyền mở. Với nội dung quy định này đã gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành ở các địa phương khác nhau. Cụ thể, có Tòa án tiến hành chỉ mở một tài khoản ngân hàng do Chánh án Tòa án nhân dân cấp đó làm chủ tài khoản và tất cả số tiền thu được từ các vụ phá sản khác nhau đều nộp chung vào đó. Cũng có Tòa án lại mở từng tài khoản ngân hàng riêng cho mỗi vụ phá sản và chủ tài khoản ngân hàng đó vẫn là Chánh án, hoặc có nơi thì mở từng tài khoản ngân hàng khác nhau cho mỗi vụ phá sản và chủ tài khoản đó chính là Thẩm phán được phân công giải quyết từng vụ phá sản cụ thể đó. Sở dĩ có sự khác nhau đó là do luật không có quy định cụ thể, rõ ràng và hiện nay cũng chưa có văn bản cụ thể nào của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn về vấn đề này. Với sự phát triển lớn mạnh của nền kinh tế thị trường sẽ làm cho số lượng các doanh nghiệp, hợp tác xã mới được hình thành ngày càng nhiều. Những doanh nghiệp, hợp tác xã đáp ứng được các đòi hỏi, yêu cầu của thị trường thì tồn tại, phát triển, còn những doanh nghiệp, hợp tác xã không đáp ứng được sẽ bị đào thải, loại bỏ. Vì vậy, số lượng các vụ yêu câu giải quyết phá sản sẽ ngày càng nhiều. Do đó, việc áp dụng quy định nêu trên tại Tòa án nên theo hướng mỗi một vụ phá sản mở một tài khoản ngân hàng riêng và chủ tài khoản ngân hàng đó sẽ là Thẩm phán được giao giải quyết vụ phá sản đó. Việc mở tài khoản ngân hàng riêng sẽ đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng và  dễ dàng trong vấn đề quản lý tài chính, đặc biệt đối với những vụ phá sản doanh nghiệp lớn thì số tiền thu về khi giải quyết phá sản là rất lớn, nếu gộp chung số tiền thu được của các vụ phá sản vào một tài khoản thì sẽ rất khó quản lý. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, năng lực về tài chính kế toán của các Thẩm phán là khác nhau và thường không chuyên sâu, bên cạnh đó, ở mỗi Tòa án hiện nay thì thường chỉ có một hoặc một số cán bộ làm công tác kế toán, phụ trách chung công tác tài chính kế toán của cả cơ quan, nên việc bao quát và kiểm soát thêm các tài khoản này là rất khó khăn nếu như nhập chung tất cả vào một tài khoản. Với việc mở tài khoản ngân hàng và tài khoản đó do chính Thẩm phán được giao giải quyết vụ phá sản đó làm chủ tài khoản sẽ thuận lợi hơn trong quá trình thực thi.

Nguyễn Thu Thủy - Phòng XD và KTVB