Tình hình thay đổi đơn vị hành chính ở huyện Lương Tài
Theo các sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Các tổng trấn xã danh bị lãm”, “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn, “Địa lý hành chính tỉnh Bắc Ninh” của Nguyễn Văn Huyên, Thời Trần (1225 - 1400), huyện có tên là Thiện Tài. Thời thuộc Minh, vẫn gọi là Thiện Tài và trực thuộc châu Gia Lâm. Đầu thời Lê (1428) đổi tên là huyện Lương Tài và trực thuộc phủ Thuận An.
Theo sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi thì đầu thế kỷ XV, huyện Lương Tài có 74 xã. Đầu thời Gia Long (thế kỷ XIX), huyện có 9 tổng:
1. Tổng Lương Tài có 9 xã, thôn: Lương Tài, Mậu Lương, Tuấn Lương, thôn Nhuận Trạch thuộc xã Đông Trạch, thôn Khuyến Thiện thuộc xã Đông Trạch (thôn này phiêu tán năm 1807, năm 1808 phục hồi), Xuân Đào, Đồng Xuyên, Mậu Duyệt, Cận Duyệt (xã Mậu Duyệt và xã Cận Duyệt phiêu tán năm 1807, năm 1808 phục hồi).
2. Tổng Ngọc Trì có 5 xã: Ngọc Trì, Quảng Cầu, Ngô Phần, Tỉnh Ngô, Cổ Lãm.
3. Tổng Quảng Bố có 6 xã:, Quảng Bố, Quảng Nạp, Hạo Bá, Thanh Da, Bình Mai, Phú Thọ.
4. Tổng Lâm Thao có 5 xã: Lâm Thao, Thái Trì, Bảo Khám, Bảo Thao, Xuân Quan (năm 1807 phiêu tán, năm 1808 phục hồi).
5. Tổng Lương Xá có 8 xã: Lương Xá, Ông Lâu, Lãng Dương, Bích Khê, Thọ Ninh, Lai Xá Tê, Lai Xá Đông, Tuần La.
6. Tổng An Tráng có 7 xã: An Tráng (năm 1807 phiêu tán, năm 1808 phục hồi), Uyên Lãng, Đức Trai, Hoa Cầu, Phú Tráng, Kham Du, Xuân Áng.
7. Tổng Tỳ Bà có 9 xã: Tỳ Bà, Hương Chi, Cứu Dương, An Xá, Phú Văn, Nội Duệ, Phồn Khê, Văn Xá, Phương Xá, Mạc Xuyên (xã Mạc Xuyên năm 1807 phiêu tán, năm 1808 phục hồi).
8. Tổng Đặng Xá có 11 xã, thôn: Đặng Xá, thôn Ngô An Cường thuộc xã Đương Triều, thôn Ngọc Thượng thuộc xã Nhị Trai, thôn Cự thuộc xã Nhị Trai, Thận Trai, Nhất Trai, Vĩnh Trai, Hương Trai, Đỉnh Dương (thôn Cự và các xã: Thận Trai, Nhất Trai, Vĩnh Trai, Hương Trai, Đỉnh Dương, Trình Phú năm 1807 phiêu tán, năm 1808 phục hồi).
9. Tổng Phá Lãng có 12 xã, thôn: Phá Lãng, Trung Trinh, Đào Xá, Đào Xuyên, Lãng Khê, Trình Khê, Khải Mông, Đạo Sử, thôn Phượng Trì thuộc xã Dị Sử, thôn Tam Sơn thuộc xã Dị Sử, Kim Đào, Nhuế Đông, thôn Đông Hoa thuộc xã Dị Sử (năm 1807 các xã Nhuế Đông, Kim Đào và thôn Đông Hoa thuộc xã Dị Sử phiêu tán, năm 1808 phục hồi).
Theo sách “Đồng Khánh địa dư chí”, đến năm 1886, huyện Lương Tài vẫn có 9 tổng, nhưng số xã thôn có một vài thay đổi: tổng Tỳ Bà có 11 xã thôn, Đặng Xá đổi là Trừng Xá và có 10 xã thôn, Phá Lãng có 14 xã thôn.
Năm 1893, khi huyện Thanh Lâm thuộc phủ Nam Sách tỉnh Hải Dương bị giải thể, 3 tổng của huyện này là An Trụ (gồm 5 xã), Hoàng Kênh (5 xã), Lại Thượng (gồm 6 xã, thôn) được chuyển về huyện Lương Tài. Đồng thời, cắt tổng An Tráng (gồm 7 xã) về huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương và cắt tổng Lương Tài (gồm 9 xã thôn) về huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Từ đây huyện Lương Tài có 10 tổng (gồm 75 xã, thôn). Đó là các tổng:
1. Tổng Ngọc Trì có 5 xã: Ngọc Trì, Quảng Cầu, Ngô Phần, Tỉnh Ngô, Cổ Lãm.
2. Tổng Quảng Bố có 6 xã: Quảng Bố, Quảng Nạp, Tuyên Bá, Thanh Da, Lĩnh Mai, Phú Thọ.
3. Tổng Lâm Thao có 5 xã: Lâm Thao, Ngọc Quan, Thái Trì, Ngọc Khám, Kim Thao.
4. Tổng Lương Xá có 8 xã: Lương Xá, Phú Lâu, Lãng Dương, Bích Khê, Thọ Ninh, Lai Xá Tê, Lai Xá Đông, Tuần La.
5. Tổng Tỳ Bà có 11 xã thôn: Tỳ Bà, Hương Chi, Duyện Dương, Tĩnh Xá, Phú Văn, Mỹ Duệ, Bà Khê, Văn Xá, Phương Xá, thôn Ngọc Thượng xã Nhị Trai, Mạc Xuyên.
6. Tổng Trừng Xá có 11 xã thôn: Trừng Xá, thôn An Cường và thôn Đăng Triều, Nhất Trai, thôn Cự thuộc xã Nhị Trai, Thận Trai, Vĩnh Trai, Hương Trai, Đỉnh Dương, thôn Đạm Trai xã Thận Trai, thôn Đông Linh xã Nhị Trai
7. Tổng Phá Lãng có 14 xã thôn: Phá Lãng, Trung Trinh, Đào Xá, Chinh Phú, Đào Xuyên, Lãng Khê, Trình Khê, Khải Mông, Đạo Sử, thôn Phượng Trì thuộc xã Dị Sử, thôn Tam Sơn thuộc xã Dị Sử, Kim Đào, Nhuế Đông, thôn Đông Hương thuộc xã Dị Sử.
8. Tổng An Trụ có 5 xã: An Trụ, Thanh Lâm, Thanh Hà, Lôi Châu, Cáp Thuỷ.
9. Tổng Hoàng Kênh có 5 xã thôn: thôn Nguyễn xã Hoàng Kênh, Quan Kênh, Tháp Dương,Tảo Hoà, Cáp Điền.
10. Tổng Lại Thượng có 7 xã thôn: Lại Thượng, Lại Hạ, Bích Khê,Văn Phạm, My Xuyên, 2 thôn Lai Khê, Bồng Lai.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi đơn vị hành chính cấp tổng bị bãi bỏ, đơn vị hành chính cấp xã cũ được giữ nguyên và trực thuộc huyện Lương Tài. Năm 1948, một số xã nhỏ (tương đương với đơn vị làng) được sáp nhập lại thành xã lớn. Một số xã lấy tên tổng cũ đặt tên cho xã, một số đặt tên mới. Những xã đặt theo tên tổng cũ là: Lâm Thao, Phá Lãng (gồm 4 làng của tổng Phá Lãng); những xã đặt tên mới là: Bình Định (gồm các làng của tổng Ngọc Trì cũ), Quảng Phú (các làng của tổng Quảng Bố), Phú Lương (gồm các làng của tổng Lương Xá), Trung Kênh (gồm các làng của tổng Hoàng Kênh), An Thịnh (các làng thuộc tổng An Trụ), Phú Hòa (gồm các làng thuộc tổng Tỳ Bà), Mỹ Hương (gồm 3 làng của tổng Lại Thượng), Tân Lãng (gồm 4 làng của tổng Phá Lãng), Trừng Xá, Lai Hạ (gồm một số làng của tổng Lại Thượng), Trung Chính (gồm 3 làng của tổng Phá Lãng), Minh Tân (gồm 6 làng của tổng Đặng xá),...
Năm 1949, xã Trừng Xá đổi tên là Thắng Lợi.
Tháng 8 năm 1950, huyện Lương Tài hợp nhất với huyện Gia Bình thành một huyện, lấy tên là huyện Gia Lương. Lúc này huyện Gia Lương có 28 xã. Huyện lỵ khi đó vẫn đóng tại phố Thứa xã Phá Lãng.
Ngày 10 tháng 6 năm 1967, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 398-NQ/TVQH về việc sáp nhập xóm Bình Giang thuộc xã Minh Tân huyện Gia Lương tỉnh Hà Bắc vào xã Thái Tân huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương.
Ngày 4 tháng 6 năm 1969, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 84-CP hợp nhất huyện Gia Lương và huyện Thuận Thành thành một huyện lấy tên là huyện Gia Thuận. Nhưng đến ngày 19 tháng 1 năm 1974, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 17-CP phê chuẩn đề nghị của UBND tỉnh Hà Bắc thôi không hợp nhất huyện Gia Lương với huyện Thuận Thành.
Ngày 01 tháng 8 năm 1980, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 237-CP Về việc sáp nhập xã An Bình thuộc Gia Lương vào huyện Thuận Thành.
Ngày 19 tháng 6 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 42/1998/ND-CP về việc thành lập thị trấn Thứa, thị trấn huyện lỵ huyện Gia Lương. Thị trấn Thứa được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Phá Lãng, có diện tích đất tự nhiên là 691 ha và 9.176 nhân khẩu. Địa giới thị trấn Thứa: Đông giáp xã Phú Hoà và xã Trừng Xá, Tây giáp xã Bình Định, Nam giáp xã Trung Chính và xã Phú Lương, Bắc giáp xã Quỳnh Phú và xã Tân Lãng
Ngày 09 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 68/1999/NĐ-CP. Theo đó, huyện Gia Lương được chia làm 02 huyện Gia Bình và Lương Tài. Tại thời điểm đó, huyện Lương Tài có 10.116, 15 ha diện tích tự nhiên và 101.540 nhân khẩu, gồm 14 đơn vị hành chính trực thuộc, trong đó có 13 xã và 1 thị trấn. Đó là các xã: An Thịnh, Trung Kênh, Phú Hoà, Mỹ Hương, Tân Lãng, Quảng Phú, Trừng Xá, Lai Hạ, Trung Chính, Minh Tân, Bình Định, Phú Lương, Lâm Thao và thị trấn Thứa, với 102 thôn, làng, khu phố.
Địa giới hành chính huyện Lương Tài: Đông giáp tỉnh Hải Dương, Tây giáp huyện Thuận Thành, Nam giáp tỉnh Hải Dương, Bắc giáp huyện Gia Bình.
Từ khi thành lập (thế kỷ XIII), huyện Lương Tài đã nhiều lần thay đổi lỵ sở. Đầu tiên lỵ sở đóng ở xã Lương Tài (nay thuộc tỉnh Hưng Yên), sau chuyển về xã Ngọc Trì (nay là làng Ngọc Trì xã Bình Định), rồi về xã Lương Xá (nay là làng Lương Xá thuộc xã Phú Lương), sau lại về xã Bảo Thao (nay là làng Kim Thao thuộc xã Lâm Thao), sau đó chuyển về xã Kim Đào (nay là làng Kim Đào thuộc thị trấn Thứa), rồi lại chuyển về xã Đạo Sử tổng Phá lãng (nay là thị trấn Thứa). Sách “Đồng Khánh địa dư chí” chép: “Huyện lỵ đặt tại xã Đạo Sử tổng Phá Lãng, xung quanh đắp thành đất hình vuông, mỗi chiều 17 trượng, chu vi 68 trượng, thành cao 6 thước, chân thành rộng 1 trượng 2 thước, mặt thành rộng 4 thước 4 phía có hào rộng 1 trượng 4 thước, mở hai cửa tiền và hữu”. Hiện nay, huyện lỵ đóng tại thị trấn Thứa.
Tình hình dân số 4 năm gần đây:
- Đến hết năm 2006: 105.576 (trong đó nữ có 56.176)
- Đến hết năm 2007: 106.719 (trong đó nữ có 56.685); số hộ: 28.861.
- Đến hết năm 2008: 107.668 (trong đó nữ có 57.044); số hộ: 29.218.
- Đến ngày 01 tháng 4 năm 2009: 95.954 (trong đó nam: 46.860, nữ: 49.091); số hộ: 29.468.